Các kỹ thuật siêu âm sàng lọc dị tật thai
Siêu âm 2D giúp tầm soát các bất thường thai, 3D cung cấp hình ảnh cấu trúc thai trên không gian ba chiều, siêu âm màu khảo sát cấu trúc tim và mạch máu.
Máy siêu âm hoạt động dựa trên nguyên lý định vị bằng sóng siêu âm. Thông qua một đầu dò, sóng siêu âm liên tục được phát ra và thu nhận tín hiệu phản hồi để tái tạo hình ảnh các cấu trúc bên trong cơ thể thai nhi.
Theo ThS.BS Hà Tố Nguyên, Giám đốc Trung tâm Y học bào thai, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM, sóng siêu âm là sóng âm thanh cao tần số nhưng năng lượng thấp, không gây hại cho thai nhi. Hiện nay, máy siêu âm tích hợp nhiều tính năng như 2D (B-mode), Doppler màu và mode thể tích (3D, 4D).
Siêu âm 2D
Siêu âm 2D còn gọi là siêu âm đen trắng hoặc B-mode (Brightness mode) giúp khảo sát hình thái học, tầm soát bất thường cấu trúc, theo dõi và đánh giá sự phát triển của bào thai. Những hình ảnh phản hồi trên siêu âm 2D được hiển thị dưới dạng thang xám (các mức độ khác nhau, từ đen đến trắng) theo thời gian thực. Các mô có mật độ khác nhau cho phản âm khác nhau tùy theo quy ước, thể hiện qua các màu sắc của thang xám. Ví dụ mô xương cho phản âm cường độ mạnh có màu trắng, dịch ối không cho phản âm thì có màu đen. Nhờ vậy, bác sĩ siêu âm phân biệt được các cấu trúc khác nhau của thai nhi.
Ở các máy siêu âm hiện đại, hình ảnh trên 2D hiển thị rõ nét với độ ly giải và tương phản tối ưu. Do đó, nhiều bất thường thai được chẩn đoán chính xác ở tuổi thai sớm.
Trong ba tháng đầu thai kỳ, siêu âm 2D giai đoạn sớm giúp chẩn đoán xác định có thai, số lượng thai, tuổi thai, đo độ mờ da gáy tầm soát các bất thường nhiễm sắc thể, khảo sát dị tật thai sớm. Nếu thai phụ có dấu hiệu bất thường kèm theo như đau bụng, ra huyết âm đạo, siêu âm 2D đánh giá tình trạng thai (có phôi thai, tim thai, máu tụ quanh túi thai...), loại trừ biến chứng thai ngoài tử cung. Kỹ thuật này cũng kiểm tra tử cung và buồng trứng của thai phụ, chẩn đoán tử cung dị dạng, buồng trứng có khối u.
Trong ba tháng giữa, siêu âm 2D khảo sát hình thái học thai, phát hiện các bất thường. Kỹ thuật này còn đo các số đo sinh trắc học, ước tính cân nặng thai để xác định sớm các trường hợp thai nhỏ. Giai đoạn cuối thai kỳ, siêu âm 2D giúp tầm soát các bất thường thai xuất hiện muộn, đo các chỉ số sinh trắc học thai (đường kính lưỡng đỉnh, chu vi vòng đầu, chu vi vòng bụng, chiều dài xương đùi) để ước tính cân nặng thai, chẩn đoán các rối loạn tăng trưởng thai như thai to, thai nhỏ. Phương pháp này còn đánh giá bánh nhau, lượng nước ối, chuẩn bị cho cuộc sinh.
Siêu âm Doppler (siêu âm màu)
Siêu âm Doppler khảo sát cấu trúc động như tim, mạch máu. Phương pháp này quan trọng trong chẩn đoán và quản lý thai kỳ nguy cơ cao như tiền sản giật, thai nhỏ, thai giới hạn tăng trưởng trong tử cung.
Thông qua kỹ thuật đo vận tốc dòng chảy, các chỉ số Doppler của mạch máu thai (động mạch rốn, động mạch não giữa, ống tĩnh mạch) và thai phụ (động mạch tử cung hai bên), bác sĩ đánh giá chức năng bánh nhau, khả năng cung cấp oxy, chất dinh dưỡng cho bào thai. Siêu âm Doppler giúp chẩn đoán bệnh lý nhau cài răng lược ở các thai phụ có vết mổ lấy thai kèm tình trạng nhau tiền đạo. Phương pháp này đánh giá mức độ nhau xâm lấn vào cơ tử cung, cấu trúc lân cận như bàng quang, vách chậu...
Bác sĩ Tố Nguyên cho biết siêu âm Doppler cũng như siêu âm 2D an toàn cho thai. Tuy nhiên do Doppler có thể gây tác dụng nhiệt, Hiệp hội Siêu âm sản phụ khoa thế giới (ISUOG) khuyến cáo không nên dùng Doppler ở giai đoạn sớm (7-8 tuần) khi không cần thiết.
Siêu âm 3D, 4D
Nguyên lý hoạt động của siêu âm 3D gồm ba bước là thu nhận các hình ảnh hai chiều, tái tạo hình ảnh hai chiều thành ba chiều, hiển thị hình ảnh dữ liệu trên không gian ba chiều. Kỹ thuật này giúp khảo sát chi tiết các cấu trúc bên trong (tim, não...), bên ngoài (mặt, chi...) của thai nhi từ nhiều góc độ khác nhau, trên không gian ba chiều. Đây là ưu điểm của siêu âm 3D so với 2D.
Siêu âm 4D là sự kết hợp của hình ảnh trên không gian ba chiều và chiều thời gian thực, tạo thành một đoạn phim cho thấy chuyển động cấu trúc thai như hoạt động tim thai, cử động của chi. Các biểu cảm của thai nhi như cười, ngáp, mếu, nhăn mặt, mở mắt... cũng hiển thị trên siêu âm 4D.
Siêu âm 3D, 4D được chỉ định để hỗ trợ siêu âm 2D trong khảo sát các dị tật cấu trúc mặt (sứt môi, chẻ vòm, cằm nhỏ), bất thường của hệ thần kinh trung ương, xương chi, tim thai. Hai phương tiện này được chỉ định thường quy trong ba tháng giữa (20-24 tuần) hoặc đầu ba tháng cuối (28-30 tuần). Ba tháng giữa là thời điểm thai phát triển gần như hoàn thiện, lượng nước ối đủ nhiều giúp đánh giá chi tiết hình thái học thai nhi chính xác, tái tạo hình ảnh khuôn mặt thai trên không gian ba chiều rõ nét và chân thực. Tuy nhiên, hai phương pháp này không thể thay thế kỹ thuật 2D trong quá trình theo dõi và chăm sóc thai kỳ.
Bác sĩ Nguyên khuyến nghị thai phụ tuân thủ đúng lịch khám thai. Tùy thuộc vào tuổi thai và tình trạng thai nhi, bác sĩ chỉ định loại hình siêu âm tương ứng.